Các đường mổ cơ bản gồm các đường mổ ở các vị trí khác nhau trên ổ bụng đã được khoa học nghiên cứu và chứng minh, dựa vào kiến thức này giúp các phẫu thuật viên ngoại khoa có thể đi vào ổ bụng một cách tốt nhất mà không làm ảnh hưởng đến các vùng khác.
Từ “incision” bắt nguồn từ tiếng Latinh (in + cidere = incisio). Một đường rạch để mở bụng có thể là đường rạch dọc, chéo hay ngang. Các đường mổ cơ bản
1. Đường rạch dọc
1. Đường giữa; 2. Đường trên rốn; 3. Đường dưới rốn; 4. Đường cạnh giữa phải;
5. Đường McEvedy (dùng trong phẫu thuật sửa chữa thoát vị bẹn và thoát vị đùi)
a) Đường giữa
Đây là cách can thiệp vào khoang bụng thông thường nhất trước khi xuất hiện phẫu thuật xâm lấn tối thiểu. Không nên rạch ngang qua rốn và dây chằng liềm. Cầm máu mô dưới da cẩn thận trước khi rạch mở khoang phúc mạc. Các đường mổ cơ bản
Ưu điểm:
– Có thể bộc lộ tốt khoang bụng và vùng chậu hông
– Vào khoang bụng nhanh chóng
– Đường giữa là đường rạch ít chảy máu nhất
– Dễ thực hiện
Khuyết điểm: để lại vết sẹo lớn và không đẹp, làm tăng nguy cơ thoát vị và rách đường giữa.
b) Đường cạnh giữa
Song song và cách đường giữa khoảng 3 cm. Khi rạch sẽ lần lượt đi qua các cấu trúc: da – lá trước bao cơ thẳng bụng – cơ thẳng bụng – lá sau bao cơ thẳng bụng – mạc ngang – lớp mỡ ngoài phúc mạc – phúc mạc. Khi khâu đóng lại cũng phải khâu từng lớp.
Mục đích: bộc lộ phần khoang bụng cần thiết.
Ưu điểm: giảm tỷ lệ mắc phải thoát vị vết mổ.Nhược điểm: tốn nhiều thời gian để đóng vết mổ, tăng nguy cơ nhiễm trùng, dễ chảy máu vết mổ, tổn thương thần kinh và có thể làm tổn thương mạch máu cung cấp cho đường giữa. Các đường mổ cơ bản
2. Đường rạch chéo
1. Đường Kocher (dùng trong phẫu thuật cắt túi mật); 2. Đường Mcburney (dùng trong phẫu thuật cắt ruột thừa);
3. Đường bẹn trái; 4. Đường ngực bụng
3. Đường rạch ngang
1. Đường Gable; 2. Đường cắt ngang cơ; 3. Đường Lanz; 4. Đường Maylard;
5. Đường Pfannenstiel; 6. Đường Cherney
a) Đặc điểm cơ bản
Ưu điểm: những đường rạch này mang lại vẻ thẩm mỹ, vết sẹo mạnh hơn nhiều và ít đau hơn so với các đường rạch dọc, và ít gây cản trở hô hấp. Tuy nhiên cũng không khác nhau về tỷ lệ rách vết mổ.
Nhược điểm: chảy máu nhiều
b) Các đường rạch chính
1. Đường mổ Kocher
Mở vào túi mật và đường mật.
2. Đường mổ Midline
Có thể thực hiện hầu hết mọi thủ thuật ở bụng qua đường mổ này. Tốt hơn là vòng qua trái rốn trừ trường hợp dạ dày bên trái.
3. Đường mổ Macburney
Mổ ruột thừa.
4. Đường mổ Battle
Mổ ruột thừa, và bệnh lý ở góc phần tư dưới phải.
5. Đường mổ Lanz
Là biến thể của đường mổ Macburney, có tính thẩm mỹ cao hơn khi mổ ruột thừa.
Đây là một đường đặc biệt ở hố chậu phải. So với đường McBurney, đường rạch này nằm ngang, gần cơ thẳng bụng hơn, và sát gai chậu trước trên, nó mang lại vẻ thẩm mỹ tốt hơn. Nhưng có thể làm tổn thương thần kinh chậu bẹn và thần kinh chậu hạ vị, và tỷ lệ thoát vị cao hơn. Mục đích chính của đường rạch này là bộc lộ manh tràng và ruột thừa. Nếu là đường rạch ở hố chậu trái thì có thể dùng để bộc lộ đại tràng trái (không thể bộc lộ được trực tràng).
6. Đường mổ Paramedian
Rất thích hợp để tiếp cận các cấu trục phía sau như lách, thận, tuyến thượng thận.
7. Đường mổ Transverse
Thích hợp đối với trẻ em, trẻ mới sinh, đặc biệt là trẻ thừa cân.
8. Đường mổ Rutherford Morrison
Đường mổ vào thận, kết tràng trái, mở manh tràng (điều trị tắc nghẽn kết tràng), đại tràng sigma.
9. Đường mổ Pfannenstiel
Đường mổ vào chậu hông, mổ bắt con, bàng quang, tuyến tiền liệt.
Được dùng trong phụ khoa
Ưu điểm: an toàn, bộc lộ tối thiểu, vết rạch dài khoảng 10-15 cm.
Nhược điểm: cắt đứt các thần kinh và mạch máu cho cơ thẳng bụng, vết mổ lâu lành.
10.Đường Maylard
Nằm trên khớp mu 3-8 cm, cắt ngang qua cơ thẳng bụng, giúp bộc lộ tốt vùng chậu, thường dùng trong các phẫu thuật vùng chậu.
11. Đường Cherney
Giống như đường Pfannenstiel, nhưng cắt ngang cơ thẳng bụng tại vị trí gân bám vào khớp mu. Cho phép tiếp cận tốt khoang Retzius. Các đường mổ cơ bản
12. Đường Rockey Davis (Elliot)
Thay thế cho đường McBurney ở ¼ bụng dưới phải, thay vì đường McBurney là đường rạch chéo, thì đây là một đường rạch ngang, được giới thiệu đầu tiên bởi JW Elliot vào năm 1896, sau đó là AE Rockey năm 1905, và cuối cùng là GG Davis năm 1906.
Nguồn: Dịch từ Surgical Techniques – Textbook of Medical Students
Leave a Reply