Mấy lời khuyên dành cho sinh viên y khoa

(Buổi nói chuyện do trường Đại Học Y khoa Huế tổ chức ngày 29-6-1968 Tại Trung Tâm Y Khoa Đại Học SAIGON)

20767685 676290462494988 4941190595677897286 n

Các bạn sinh viên thân mến,

Nghề thuốc mà các bạn đã chọn là một nghề cao đẹp nhất và chính để chứng tỏ điều đó nên mới có buổi nói chuyện hôm nay, một buổi nói chuyện thân mật giữa một người Thầy Thuốc – đã hành nghề trên 30 năm – với những người Thầy Thuốc tương lai, giữa một người anh cả với các em sắp sửa vào nghề, bởi dù muốn dù không các bạn và tôi, chúng ta từ bao nhiêu thế hệ nay đã được coi như thuộc về một gia đình – đại gia đình y giới – và riêng về điểm đó, ngay từ bây giờ, các bạn đã thấy nghề thuốc không giống như các nghề tự do khác.

Các bạn thân mến,

Các bạn đã chọn nghề thuốc với tất cả một tấm lòng nhiệt huyết, hăng say của tuổi thanh xuân, nhưng thử hỏi đã mấy ai chịu tìm hiểu những lý do thúc đẩy mình vào con đường ấy?

Có một số bạn trẻ chọn nghề này, coi như một lẽ đương nhiên để nối nghiệp cha anh đã từng là thầy thuốc.

Có một số, vì ham thích và cũng như mọi ham thích, khó lòng mà giải thích được tại sao. Có thể vì hồi nhỏ ốm đau, đã được người thầy thuốc tận tâm săn sóc, hoặc được mục kích những cảnh thập tử nhất sinh mà được bàn tay người bác sĩ cứu sống.

Đối với một số nữa – rất hiếm – có lẽ làm nghề thuốc vì đó là một thiên chức (une vocation): ngoài mảnh bằng bác sĩ để hành nghề ra, còn muốn làm một cái gì khác nữa, như trở thành một nhà khảo cứu, một vị bác học hoặc một giáo sư đại học.

Thiên chức theo định nghĩa, là một tiếng nói tự đáy lòng phát ra, nó thúc giục ta làm một việc nào đó. Giáo sư Maranon bảo là: “Một loại đam mê có tính chất của tình thương, kẻ nào có một thiên chức coi vật mình yêu như một mục đích độc hữu, không thể chia sẻ được. Họ phụng sự mối tình yêu đó mà tuyệt đối không vụ lợi” và vẫn theo lời Maranon: “Sở dĩ nghề thuốc suy đồi vì thanh niên khi chọn nghề đó không phải vì có thiên chức thật sự, mà chỉ vì hy vọng có một địa vị cao sang”.

Người ta đã điều tra một số sinh viên y khoa để biết tại sao họ chọn nghề thuốc: Trong số 100 sinh viên có tới 70 người trả lời: không biết; còn lại 30 có người bảo: học thuốc để tìm những thỏa mãn tri thức, hoặc vì có một niềm tin hoặc vì nghề đó đã danh giá lại kiếm được nhiều tiền.

Tôi biết một số thanh niên sau khi đậu xong Tú Tài lưỡng lự không biết chọn ngành nào ở đại học bèn chọn đại y khoa vì nghe lời cha mẹ hoặc họ hàng thân thuộc – những người này không phải là thầy thuốc, không hiểu nghề thuốc là gì mà chỉ nhìn thấy một khía cạnh sai lầm là nhà lầu, xe hơi, tiền bạc,… Những người đó xem nghề thuốc như nghề đi buôn và cho rằng học hành vất vả mới giật được mảnh bằng bác sĩ thì dĩ nhiên phải được đền bù xứng đáng, phải được thụ hưởng. Còn bổn phận của mình những gì, trách nhiệm ra sao họ đâu có biết hoặc nghĩ tới?

Đối với hạng người này tôi xin nhắc lại ở đây câu nói của P. Le Gendre: “Kẻ nào chỉ làm nghề thuốc với hi vọng làm giàu, kẻ đó sẽ thất vọng, vì nghề thuốc chỉ được trọng vọng khi nào chúng ta có một tinh thần vị tha, hỉ xả”.

Các bạn thân mến,

Khi các bạn chọn nghề này, dĩ nhiên là để sinh sống, để nuôi gia đình, để hưởng một đời sống sung túc. Tuy nhiên chúng ta không được quan niệm nghề thuốc như một nghề để làm tiền, vì nếu các bạn hành nghề đúng đắn ít khi các bạn có thể giàu được. Ngoài vấn đề mưu sinh ra tất còn có một lý do nào khác nữa nó thúc đẩy các bạn lựa chọn cái nghề đó. Tôi không dám dùng những danh từ quá to tát như: “cứu nhân độ thế” mà chỉ nói: sở dĩ làm nghề thuốc là để mong xoa dịu được phần nào những đau khổ của đồng bào, muốn giúp ích cụ thể cho xã hội.

Có bạn học thuốc, như trên vừa nói, để thỏa mãn tri thức, thỏa mãn sự tò mò, hiểu biết những kỳ quan của bộ máy con người ta, muốn tháo nó ra từng mảnh để xem bên trong có những gì, tại sao nó chạy, hoặc muốn tìm cho ra hạt bụi nào đó đã làm cho bộ máy kia tắc, rồi ngưng chạy…

Đối với sinh viên y khoa, còn gì vui sướng và hồi hộp bằng lần đầu tiên ở trong bệnh viện, chỉ nhờ có nghe và gõ lên ngực bệnh nhân mà đã đoán được rằng trong màng phổi có nước và khi lấy chiếc kim chọc vào phổi thì quả nhiên thấy có nước thật.

Không những học để biết mà còn để phụng sự nữa.

Còn niềm vui gì bằng sau một thời gian vật lộn với tử thần người thầy thuốc đã đẩy lui được bệnh và trao trả cho bà me đứa con thân yêu của bà. Người ta muốn phê bình sao thì phê bình, một người thầy thuốc sau một ngày làm lụng vất vả, bảo họ “hái ra tiền” chẳng hạn, nhưng tôi dám chắc ngoài việc chữa bệnh ra, còn phải có những động cơ nào khác nó thúc đẩy họ chứ không riêng gì tiền bạc.

Họ không thể không băn khăn lo lắng mỗi khi rời một căn nhà, trong đó có một tính mạng đang bị đe dọa, hoặc đó là tính mạng của một người cha, cột trụ của cả một gia đình, hoặc tính mạng của một người mẹ với đàn con thơ dại đang cần có người săn sóc dạy dỗ, hoặc tính mạng của một đứa hài nhi, chỉ có quyền sống chứ không được chết yểu…Mối băn khăn đó đôi khi còn ám ảnh người Thầy Thuốc trong bữa ăn giấc ngủ của họ.

Người Thầy Thuốc không thể không có những suy tư sau khi ngồi bên giường bệnh kiên nhẫn nghe lời kể lể tâm sự của thân chủ mình, rồi cố tìm một lời nói dịu dàng để khuyên nhủ, ngõ hầu xoa dịu được phần nào những nỗi khổ đau về tinh thần, những khắc khoải hoặc dằn vặt của một lương tâm đang bị cắn rứt….

Người Thầy Thuốc không những chỉ đem lại cho ta sức khỏe, họ giúp ta sống đã đành nhưng nhiều khi họ giúp ta nhắm mắt cho yên nữa.

Chữa khỏi đã vậy, nhưng còn những khi thất bại? Đã mấy ai thấu hiểu được nỗi khổ của người Thầy Thuốc, dù ham tiền mấy đi nữa, sau khi thâu canh ngồi bên một sản phụ, những mong cứu sống được cả mẹ lẫn con, hoặc ít nữa một trong hai người, nhưng rút cuộc không cứu nỗi ai hết.

Và trong khi người thầy thuốc ấy, khác nào một kẻ bại trận, rửa tay – hai bàn tay đẩm máu và run lẩy bẩy – thu xếp đồ dùng cho vào cặp rồi lủi thủi ra về, mặt mũi phờ phạc, đầu choáng mắt hoa, có những con mắt ngấn lệ, đầy đau thương, có khi đầy oán hận, nhìn theo và biết đâu không lên án họ? Ôi, VINH NHỤC của nghề thuốc!

Người ta muốn phê bình người Thầy Thuốc ra sao tùy ý, nhưng tôi dám chắc, trong khi hành nghề, họ không thể không có một niềm tin, một tia hi vọng, một ngọn lửa thiêng nào đó trong lòng. Nói tóm lại, thế nào họ cũng phải có một nhiệt hứng khiến họ cảm thấy sung sướng khi tìm ra căn bệnh. Một niềm vui khi phụng sự và thành công. Duhamel đã nói: “Không có nghề nào cao đẹp và buồn bằng nghề thuốc, một nghề đói hỏi nhiều bổn phận, nhiều trách nhiệm tinh thần, nhưng chính trách nhiệm đó, nhất là trách nhiệm tinh thần, nó làm cho nghề chúng ta cao đẹp.”

Những trách nhiệm của người Thầy Thuốc ở vào thời đại này rất nặng nề, vì không nói tất các bạn cũng rõ là chúng ta hiện đang sống trong một kỷ nguyên thật là huyền ảo, khoa học tiến quá mau, ngoài sức tưởng tượng của con người, “đã làm cho chúng ta trở thành những bậc THẦN THÁNH trước khi chúng ta xứng đáng làm người” (Jean Rostand). Thật thế: chỉ trong vòng ba bốn chục năm, y học đã tiến triển và khác hẳn bốn ngàn năm trước và nếu ngoảnh lại nhìn chặng đường đã qua, chúng ta không thể không giật mình kinh ngạc.

Giáo sư Jean Bernard đã viết không phải là quá đáng: “Một người Thầy Thuốc ở thời tiền chiến, vắng mặt sau một thời gian 30 năm và nay trở về sẽ bỡ ngỡ không khác gì một bạn đồng nghiệp của ông sống dưới thời Hippocrate nay tái sinh trước ngày thế chiến thứ hai”.

Tuy nhiên chúng ta những kẻ hậu sinh, không được quên ơn các bậc tiền bối đã có công lớn với y học, hoặc ít ra cũng nhớ đến tên tuổi những vị đó, như Pasteur, Claude Bernard, Lister, Yersin, Fleming,.v.v. Nói về ngoại khoa cách đây trên 40 năm, một danh y về khoa giải phẫu, giáo sư J. L. Faure trong bài diễn văn khai mạc một cuộc hội nghị quốc tế đã nói: “Ngày nay khoa giải phẫu đã lên tới chỗ tuyệt đỉnh rồi, khó lòng mà tiến hơn nữa”.

Tuy nhiên trên lãnh vực y khoa, ai dám tự hào mình là một nhà tiên tri, và ngày nay – 1968 – chúng ta có thể lập lại câu nói và biết đâu trong vài ba năm nhận xét của chúng ta lại không đúng nữa. Các bạn tất đã biết nhờ có thuốc mê (tìm ra năm 1816 ở Hoa Kỳ) mà người ta có thể giải phẫu với những điều kiện mới. Nhất là sau cuộc cách mạng do Pasteur khởi xướng, cho biết nguyên nhân của phần nhiều bệnh là vi trùng, rồi nhờ có phương pháp sát trùng (antiseptie) của Lister, nhất là phương pháp phòng hủ (asepsie) của Terrier, số người chết đi vì giải phẫu giảm đi rất nhiều. Đồng thời các nhà giải phẫu táo bạo hơn, dám đi sâu vào trong cơ thể, nào mổ ruột, mổ dạ con, nào giải phẫu xương, khớp xương,.v.v…

Mặc dầu khoa giải phẫu tiến bộ rất mau, mặc dầu kỹ thuật giải phẫu đã được hoàn bị, vẫn còn có người chết vì giải phẫu do những xáo trộn trong cơ thể. Quan trọng hơn hết là xáo trộn sinh lý (desordres biologiques) gây ra một loại bệnh hậu giải phẫu (maladie post-operatoire). Bệnh này được nghiên cứu kỹ càng để dần dà đưa tới phương pháp hồi sinh (reanimation), một phương pháp ngày nay rất thông dụng, không những ở ngoại khoa mà còn ở nội khoa nữa. Một trong những kỹ thuật kỳ lạ nhất của khoa gây mê là đông miên nhân tạo (hibernation artificielle) và nhờ phương pháp này, người ta có thể giải phẫu tim được.

Một đàng, nhờ có phương pháp hồi sinh và thuốc mê, đàng khác nhờ có thuốc trụ sinh – mỗi ngày một nhiều – nhờ có thuốc ngăn đông huyết (anticoagulants) và sau hết nhờ tiếp máu, có khi thay cả máu nữa, mà khoa giải phẫu đã đi vào những con đường mà từ xưa tới nay không ai dám nghĩ tới như là mổ phổi để rồi cắt đi, mổ óc, tủy, xương sống, giao cảm thần kinh (sympathique) hoặc ghép mạch máu, ghép xương, ghép mắt, ghép thận,.v.v… Mới đây các bạn còn nghe nói về những vụ thay tim làm chấn động dư luận thế giới và khiến mọi người phải kinh ngạc và thán phục vô cùng. Bên cạnh những thành công rực rỡ đó, nội khoa cũng phát triển rất nhanh. Nhờ có thuốc trụ sinh, phát minh vào cuối thế chiến thứ hai, nhiều bệnh truyền nhiễm như thương hàn, giang mai,… đã bị đẩy lui.

Nhờ có Penicilllin – do Fleming tìm ra – nhiều loại vi trùng như: pneumocoque, streptocoque, méningocoque đã bị tiêu diệt và nhiều bệnh phổi, bệnh đau màng óc cấp tính, bệnh lậu, có thể trị được, cũng như bệnh đau tim do vi trùng streptocoque viridans – còn gọi là bệnh Osler – mà xưa kia y học đã phải bó tay. Còn nhiều trụ sinh khác cũng được khám phá và đáng kể nhất là streptomycine – do Waksman tìm ra năm 1943 – rất công hiệu để trị bệnh lao, một trong tứ chứng nan y của ta. Lần đầu tiên bệnh nguy hiểm này đã bị đánh bại. Ngoài trụ sinh ra, người ta còn tìm ra được nhiều loại thuốc hóa học nữa, trong đó phải kể Isoniazide rất thông dụng từ năm 1952 để chữa bệnh lao, song song với streptomycine và nhiều thuốc khác như Chlopromazine (largactyl) để trị các bệnh thần kinh. Từ ngày có thuốc này và những thuốc mới như reserpine, tại các dưỡng đường điều trị người điên, loạn óc, ta không còn chứng kiến những cảnh huyên náo nữa, và nhất là bệnh nhân không còn bị đối xử như những con thú vật, mỗi khi lên cơn điên, bị nhốt trong chuồng sắt, chân tay bị trói chặt, như cách đây trên 30 năm, hồi tôi còn là sinh viên.

Chúng ta cũng thể quên được những khám phá quan trọng trong ngành học về những bệnh do siêu vi trùng gây ra, và nên biết rằng ngày nay, nhờ có thuốc chích hoặc uống thuốc phòng ngừa mà nhiều bệnh như bệnh tê liệt (poliomyélite) có thể tránh được, cũng như bệnh cúm (grippe), bệnh sởi (rougeole),.v.v… Những bệnh truyền nhiễm ghê gớm như bệnh tả (choléra), bệnh dịch hạch (pest), bệnh cùi (hủi), bệnh hoàng đản (fièvre jaune) không còn là mối lo cho nhân loại như hồi xưa nữa. Và những bệnh như bệnh ngủ (maladie du sommeil) ở Phi châu, bệnh sốt rét cơn (paludisme) cũng đã bị đẩy lui. Nhờ có bột DDT mà hàng chục triệu người đã không mắc bệnh sốt rét cơn.

Các bạn thân mến,

Tôi không thể kê khai hết ở đây tất cả những phát minh khác của y học trong mấy năm vừa rồi, như: sinh tố, kích thích tố (đặc biệt là cortisone, A.C.T.H) hoặc nói đến những phương pháp tối tân để định bệnh bằng quang tuyến, bằng isotope,.v.v… mà chỉ nhấn mạnh tới những khám phá quan trọng trên lãnh vực trị liệu thôi. Đời sống trung bình của con người cách đây hai thế kỷ là 35 năm, nay lên tới 70, và có lẽ chỉ trong vài chục năm nữa số người thọ 100 tuổi là thường. Nhưng chúng ta đừng quá lạc quan và yên trí rằng bất cứ bệnh nào cũng có thể trị được. Dù y học tiến bộ mấy đi nữa, hiện nay vẫn còn có một số bệnh mà người ta vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân, như bệnh tê thấp, bệnh chai động mạch (arterio-sclerose), bệnh ung thư máu (leucemie),… Còn đối với những bệnh ở thần kinh hệ do siêu vi trùng gây ra (virus neurotrope) chúng ta vẫn còn… bất lực. Y học hiện nay vẫn chưa có thuốc để cho ta khỏi già. Không những đừng quá lạc quan mà còn phải biết những nguy hiểm và những bệnh do chính thuốc gây ra (maladies thérapeutiques). Giáo sư Michel Conte đã nói: Hiện nay chúng ta đang đứng trước một bi kịch mà chúng ta không phải là khán giả. Chúng ta bị lôi cuốn vào trong một cơn gió lốc, và chúng ta phải chữa bệnh, tức là phải lực chọn những thứ thuốc mới, và cái đó không phải là chuyện dễ. Chưa bao giờ quyền lực của người thầy thuốc lại mạnh đến thế, nhưng chưa bao giờ họ lại cảm thấy mình lúng túng đến thế. Trụ sinh khi dùng bừa bãi, có thể tạo ra nhiều bệnh nặng do vi trùng staphylocoque gây ra, hoặc bệnh nấm (mycose) hoặc làm cho máu biến đổi.

Một vài loại sulfamide có thể gây ra bệnh ngoài da chết người được. Aspirine dùng nhiều có thể làm loét bao tử và xuất huyết, dùng cortisone có thể làm thủng bao tử, gây kinh phong, hoặc làm cho bệnh lao cũ tái phát. Butazolidine có thể làm băng huyết được. Nhiều tai nạn lưu thông đã xảy ra chỉ tại dùng thuốc an thần, những thuốc này làm cho phản ứng chậm lại. Người ta cũng nói nhiều về trường hợp các lực sĩ chết vì dùng kích thích tố trong các cuộc thi điền kinh. Vẫn hay rằng những thuốc nói trên, trước khi đem ra chúng đã được thí nghiệm cho súc vật (Florey và Chain đã chích Penicilllin cho chuột và thấy không độc nên mới chích cho người, cũng như các loại thuốc an thần), nhưng làm sao biết chắc được là khi áp dụng cho người sẽ không nguy hiểm? Làm sao có thể tiên liệu được những phản ứng chậm, còn những thứ thuốc, thuộc loại thuốc hóa học, mỗi ngày một nhiều, càng công hiệu lại càng nguy hiểm). Người ta đã từng thí nghiệm thuốc thalidomide trước khi đưa ra thị trường nhưng có ai ngờ đâu rằng dược phẩm đó lại làm cho các sản phụ sinh ra quái thai?

Các bạn thân mến,

Tôi không có ý nêu ra đây những nguy hiểm của thuốc để các bạn sợ và đừng dùng, mà chỉ mong sao các bạn thận trọng mỗi khi các bạn cho toa, nhất là lưu ý các bạn đến những phản ứng bất ngờ có thể xảy ra với bất cứ loại thuốc nào. Bởi vậy các bạn cần hỏi cặn kẽ bệnh nhân trước khi biên toa cho họ. Tôi đã nói với các bạn không có nghề nào có nhiều trách nhiệm bằng nghề thuốc, nhưng cũng không có nghề nào cao quý bằng. Cứu sống một người bị thương nặng nhờ giải phẫu kịp thời và đúng kỹ thuật, làm cho một bệnh nhân đang đau quằn quại chỉ trong phút chốc hết đau ngay, hoặc trả lại cho một bà mẹ đứa con yêu quý mà bà ta yên trí khó lòng qua khỏi, tất cả những cái đó, đối với một người không ở trong nghề, thật là phi thường và được coi như phép lạ. Trách nhiệm của người thầy thuốc nặng nề ngay từ khi định bệnh cho đến lúc kê toa, hoặc giải phẫu, bởi tính mạng của một người nằm trong tay họ. Trách nhiệm đó làm cho người thầy thuốc ngày đêm lo lắng đến quên ăn mất ngủ. Tôi thành thật mong cho các bạn được sống những giờ phút lo âu hồi hộp đó. Vì chính nhờ thế, rồi qua khỏi mới cảm thấy được tất cả cái cao đẹp của nghề thuốc. Trousseau, một vị danh sư của Pháp, đã từng khuyên các sinh viên y khoa: “Các bạn có bổn phận làm vẻ vang cho nghề của các bạn, cũng như nhờ nghề đó mà các bạn được vẻ vang, một nghề đòi hỏi nhiều hi sinh, một nghề trong đó ngày và đêm của các bạn sẽ là ngày và đêm của người ốm. Các bạn nên yên trí rằng các bạn gieo tận tâm mà sẽ chỉ gặt bội bạc. Các bạn sẽ phải gạt bỏ hết những thú vui đầm ấm của gia đình và thì giờ nghỉ ngơi sau một thời gian làm lụng vất vả. Các bạn không được sợ thối tha bẩn thỉu hoặc nguy hiểm, các bạn không được lùi bước trước cái chết khi cái chết đó xảy ra giữa những lúc nguy hiểm của nghề chúng ta, bởi chết như thế sẽ làm cho ai nấy khi nhắc đến tên bạn, phải tỏ lòng kính mến”.

Như tôi vừa nói, y học ngày nay tiến rất nhanh, và muốn trở thành một bác sĩ lành nghề, các bạn khi còn là sinh viên, phải siêng năng học tập, từ lý thuyết đến thực hành. Định bệnh chậm trễ hoặc sai lầm khi cho thuốc (cho quá hoặc không đủ liều) đều là những lỗi không thể tha thứ được.

Bởi vậy thiết tưởng trong LỜI TUYÊN THỆ của Hippocrate cần ghi thêm câu này: “Tôi xin thề suốt đời học hỏi”.

Trong thời buổi này, bổn phận đầu tiên của người thầy thuốc là phải học, phải biết, và phải biết cho đến nơi đến chốn, chứ không được biết lờ mờ. Không nói tất các bạn cũng rõ là những kiến thức của chúng ta ở trên mọi lãnh vực, chứ không riêng gì ở y khoa, chỉ trong vài ba năm, có khi vài tháng, đã trở thành “cũ rích”. Vì vậy chúng ta cần phải trau dồi học hỏi luôn luôn, suốt đời chúng ta vẫn phải là sinh viên đầy nhiệt hứng. Bận rộn mấy các bạn cũng cố dành thì giờ để đọc sách, báo y học, ngõ hầu theo dõi những tiến triển của y khoa, và nếu các bạn có thể tìm tòi, khảo cứu được thì càng hay. Thật là một tai họa cho người ốm nếu chẳng may gặp phải ông thầy thuốc, dù tử tế dù tận tâm, nhưng “gà mờ” khiến tiền mất mà tật vẫn mang.

Người ta thường nói: “Có học mà không có lương tâm là sự đồi bại của linh hồn” (science sans conscience n’est que ruine de l’âme). Nhưng có lương tâm mà không có học, nhất là khi làm nghề thuốc, cũng bằng thừa, nguy hiểm nữa là khác.

“Tài năng và lương tâm chức nghiệp đều có liên hệ mật thiết với nhau, và giá trị nghề nghiệp phải đi đôi với giá trị đạo đức. Dốt nát và lừa bịp đều như nhau cả.” (Gosset)

Ngoài việc trau dồi kiến thức y học, người thầy thuốc còn phải có một vài đức tính sau đây:

Có óc nhận xét, nếu không sẽ bỏ qua những triệu chứng cần thiết để định bệnh.
Có lương tri, tức óc phê bình, biết phán đoán, không quá tin ở những kỹ thuật hoặc thuốc mới nếu xét thấy những kỹ thuật và thuốc này trái ngược với bệnh lý (phòng thí nghiệm vẫn có thể nhầm được). Đừng ham mới chuộng lạ nếu thuốc kê cho bệnh nhân dùng chưa được các danh sư hoặc các bác sĩ đứng đắn xác nhận là công hiệu và không nguy hiểm. Có nhiều thứ thuốc hôm nay được ca tụng như thần dược mà chỉ trong một thời gian ngắn đã bị bỏ rơi (trường hợp vàng để trị bệnh lao, thạch tín (arsenic) để chữa giang mai,…). Bởi vậy trước khi cho toa các bạn phải thận trọng và luôn luôn nhớ tới lời châm ngôn cổ: Primum non nocere (trước hết đừng làm hại).
Có kinh nghiệm: Muốn có kinh nghiệm dĩ nhiên phải hành nghề lâu năm. Tuy nhiên đối với nghề thuốc cũng như với nhiều nghề khác, các bạn đừng tưởng rằng cứ nhiều tuổi nghề mà có nhiều kinh nghiệm, nhiều từng trải, vì có “những cái mà mình cho là kinh nghiệm, kỳ thực là những sai lầm chồng chất lên nhau” (Sergent). Một sinh viên y khoa năm thứ nhất, lần đầu tiên gặp một người mắc bệnh thương hàn, lần sau gặp một người sốt liên miên, nom có vẻ mệt mỏi, chàng ta không do dự gì cả, bảo người đó bị bệnh thương hàn. Trái lại một sinh viên năm thứ năm, hoặc một sinh viên nội trú hoặc một vị giảng sư dù đã từng chữa hàng trăm người mắc bệnh đó rồi, bao giờ cũng dè dặt, không vội vã. Những người ít học lại càng hay tự phụ, còn những người học rộng tài cao lại càng khiêm tốn “khác nào những bông lúa lép bao giờ cũng ngạo nghễ vươn đầu lên trời, trong khi những bông lúa vàng nặng trĩu hạt thì nằm rạp xuống đất”. (Leonard de Vinci).
Ngoài kiến thức về y học ra người thầy thuốc còn phải có những đức tính tinh thần, nhất là phải có tình thương. Làm thầy thuốc dù giỏi, dù có lương tâm mà thiếu tình thương thì chỉ được coi như mới làm có một nửa phận sự thôi, và nhất định không thể nào yêu nghề được. Từ mấy ngàn năm nay Hippocrate đã nhấn mạnh tới điểm quan trọng này rồi. Bạn săn sóc người ốm, sau khi đã thăm bệnh, cho toa, dặn dò cặn kẽ cách dùng thuốc như thế nào và cho biết bệnh tình nặng nhẹ ra sao, bao giờ khỏi, rồi bạn ra về, như vậy đã đủ chưa? Tôi thấy là chưa đủ. Vì ngoài cái đau đớn về thể xác, bệnh nhân nào cũng mong được vỗ về, an ủi, bệnh nhân nào dù sang hèn, cũng muốn rằng người thầy thuốc kiêm cả một nhà tiên tri nữa, biết hiện tại lẫn tương lai, chữa được mọi bệnh ngay cả tâm bệnh. Phải chính bản thân mình đã từng bị đau ốm mới biết thế nào là một người thầy thuốc. Trong khi mong đợi thì xiết bao lo ngại, băn khoăn, rồi khi thấy mặt thì mừng rỡ, cảm thấy vững tâm ngay. Mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của người thầy thuốc đều quan trọng đối với người bệnh, và người này chỉ muốn cho ông thầy lúc nào cũng ở bên cạnh mình, không rời mình ra, bất kể đêm khuya, bất kể họ mệt nhọc. Nào chỉ có thế thôi ! Lại còn những lời trách móc nếu mời mà đến chậm, hoặc đi vắng vì hôm đó nhằm ngày chủ nhật hay ngày lễ.

Chính nhờ có sự vững tâm nói trên mà nhiều khi bệnh mau khỏi. Bởi lẽ đó, y học muốn trở thành một nghề cao quý, cần phải là một nền y học nhân bản, nghĩa là hiểu thấu những gì thuộc về con người, con người toàn diện, con người trong quá khứ và hiện tại. Và nhất là phải tôn trọng con người. “Nhân bản là cảm thấy trong lòng con người ta trải qua bao thế kỷ, cái gì đó vẫn bất di, bất dịch, con người thì hoàn toàn và sống trong một thế giới thích hợp với họ, con người biết rung động trước thiên nhiên, biết rung động khi nghe một bản nhạc, khi đọc một cuốn sách khi suy ngẫm về những sự huyền bí của tạo vật. Nhân bản tức là biết cảm, biết yêu, biết thương xót.” (Maranon)

Một người ốm, không phải chỉ có phần xác, với tim, gan, phổi, thận mà thôi, lại còn có cái mà từ ngàn xưa Platon gọi là phần hồn nữa. Một bệnh nhân thuộc về bất cứ thành phần nào trong xã hội không phải là một con số, hay là một lá phiếu như ta thường quan niệm ở bệnh viện. Họ không phải là một kẻ vô danh, mà ngược lại, là một người như chúng ta, một người có tên, có tuổi, có nghề nghiệp, địa chỉ, có gia đình, có những hoài bão, ước mơ, cảm xúc.

Các bạn nên biết rằng một bệnh nhân khi nằm trên giường bệnh, không bao giờ có những phản ứng tâm lý như một người bình thường, và buổi đầu thế nào họ cũng có những xúc động lo âu.

Người thầy thuốc không phải là một người thợ máy sữa chữa cơ thể như ta sửa một cái máy hư. Đó là một con người cúi xuống một con người khác, mong giúp đỡ họ, có gì cho nấy, “đem lại cho họ một chút khoa học nhưng rõ nhiều tình thương” (Ignacio Chavez). Muốn rằng thầy thuốc là một con người máy và người ốm là một con số tức là không hiểu một tí gì về khoa tâm lý cả. Không nói tất các bạn cũng rõ là con người ta phức tạp vô cùng, đầy mâu thuẩn, có lúc sống với những bản năng cực kỳ hèn thấp, nhưng đôi khi lại có những hành động thật là cao thượng, siêu nhân. Và có lẽ bởi nhìn thấy rõ các nhược điểm đó nên người thầy thuốc, mỗi khi gặp một bệnh nhân khó tính, hoặc đối xử với mình tệ bạc mà vẫn sẵn lòng tha thứ. Không có một bộ máy nào dù cho tinh xảo mấy đi nữa, có thể ủy lạo người ốm với những lời dịu dàng trìu mến được, và giữa người thầy thuốc và con bệnh, bao giờ cũng có một sự cảm thông, một mối dây liên lạc mật thiết “một cuộc đối thoại kỳ lạ” (une colloque singulier) như Duhamel đã nói, một bên thì ký thác những gì bí ẩn trong cõi lòng của mình, còn một bên thì cho mà không hề đòi hỏi. Hiểu như vậy các bạn sẽ cảm thấy sung sướng vô cùng, và nếu cái học của các bạn không phải là cái học nhân bản thì thật là vô ích và đáng tiếc lắm. Tóm lại đối với người thầy thuốc, xứng đáng với danh từ đó “không có bệnh mà chỉ có người bệnh thôi” (Mondor).

Ta thường nghe người ta phê bình ông thầy thuốc này tốt, ông kia tử tế. Tốt hay tử tế không phải vì mát tay, mà vì ngoài công việc chữa bệnh ra, người thầy thuốc còn hỏi han đến gia cảnh của thân chủ mình, đến sự học hành của con cái họ, có khi khuyên răn, có khi giúp đỡ, nghĩa là làm tất cả những gì có thể làm cho bệnh nhân và gia đình họ được hài lòng “chỉ có người tốt mới có thể thành danh y được” (Nothnagel) vì nhiều khi chính nhờ tấm lòng tốt của người thầy thuốc mà bệnh nhân chóng bình phục. Ngoài tình thương và tấm lòng tốt ra người thầy thuốc còn phải tế nhị đối với bệnh nhân, nhất là ở bệnh viện. Các bạn đừng quên rằng người ốm bao giờ cũng có nhiều mặc cảm (mặc cảm tự ti), hay lo lắng và thường để ý tới cử chỉ và lời nói của các bạn. Các bạn đừng khinh người nghèo khó và nên nhớ rằng trước bệnh tật và cái chết ai ai cũng như nhau cả. Ambroise Pare người đã được coi như cha đẻ của khoa giải phẫu, nguyên là ngự y cho vua Charles IX. Một hôm nhà vua đau cho vời ông lại và bảo: “Trẩm mong khanh săn sóc Trẫm chu đáo hơn những người khác”. Ambroise Pare đáp: “Tâu bệ hạ hạ thần rất tiếc vì kẻ hạ thần chữa thân chủ của hạ thần như chữa các bậc đế vương”.

Ngay đến những sa đọa về tinh thần của bệnh nhân các bạn cũng phải tôn trọng.

Các bạn sinh viên thân mến,

Như trên tôi vừa nói, trong nghề thuốc của chúng ta có nhiều buồn, nhiều đau khổ hơn vui, nhất là nhiều nhục hơn vinh. Có những người mà ta tận tình săn sóc lại là những kẻ bội nghĩa vong ân, và trái lại, có những người mà tự xét ta chẳng làm được gì gọi là đáng kể thì suốt đời họ lại coi ta như bậc ân nhân.

Nói tới những bổn phận của các bạn, tôi không thể không đề cập đến vấn đề bí mật nghề nghiệp (secret professionnel). Tuyệt đối người thầy thuốc không được tiết lộ cho ai biết căn bệnh của thân chủ mình. Trong bệnh viện khi các bạn còn là sinh viên, các bạn không được nói to để người ngoài biết bệnh tình của con bệnh, hoặc cho biết họ mắc bệnh gì (một bà chủ muốn biết người làm công của mình mắc bệnh lao hay không). Ngay cả đối với nhà cầm quyền, các bạn cũng không được tiết lộ những gì bạn biết về thân chủ của các bạn. Khi viên cảnh sát trưởng hỏi ông Dupuytren để biết ai là kẻ phiến loạn trong số người nằm điều trị trong bệnh viện, ông ta đáp: “Tôi không biết ai là phiến loạn cả, tôi chỉ biết có những người bị thương thôi”. Các bạn cũng nên biết rằng các bạn có thể bị phạt tù nếu các bạn không kín miệng.

Sau hết các bạn phải có lương tâm chức nghiệp, hay nói một cách vắn tắt, các bạn khi hành nghề phải có lương tâm. Giáo sư Jean Gosset đã từng nói: “Trong phòng giải phẫu, người Thầy Thuốc là chúa tể sau đức Thượng Đế nhưng có trách nhiệm trước lương tâm của mình”.

Không riêng gì Thầy Thuốc ngoại khoa mà có thể nói một cách tổng quát là không một ai có thể kiểm soát nỗi một bác sĩ ngoại trừ lương tâm của họ. Sở dĩ ngày nay y học không có một địa vị xứng đáng trong xã hội, sở dĩ người Thầy Thuốc không được trọng vọng, không được kính nể như hồi xưa (kể cả ở Việt Nam) là bởi trong nghề của chúng ta có một số con chiên ghẻ, thiếu lương tâm chức nghiệp.

Các bạn thân mến,

Nghề thuốc mà các bạn đã lựa chọn không giống những nghề khác. Nhất định không, một trăm, một ngàn lần không. Ai đã chọn nghề này cần phải biết rằng có nhiều cái không được phép làm, và phạm tới những cấm điều đó, tức là làm hoen ố nghề mình. Nếu các bạn không muốn sống khắc khổ, không sẵn sàng hi sinh, tốt hơn hết là các bạn tìm một nghề khác, ngay từ bây giờ cũng chưa muộn.

Không thiếu gì nghề ngoài nghề thuốc vừa đem lại cho các bạn danh giá tiền bạc lại không vất vả, nhất là không có trách nhiệm gì hết.

Có người, nhiều người lầm tưởng rằng nghề thuốc cũng như nghề đi buôn. Kỳ thực, giữa nghề đi buôn và những nghề tự do, trong đó có nghề thuốc, có một hố sâu không sao lấp được. Mục đích nghề đi buôn là mua rồi bán để lấy lời. Giá hàng cao hay hạ là tùy thuộc ở món hàng tốt hay xấu, bền hay không bền.

Trái lại mục đích chính của nghề tự do không phải là tiền tài hay lợi lộc. Người Thầy Thuốc khi săn sóc một người ốm, cũng như một giáo sư khi giảng bài cho học sinh, sinh viên, đều cố gắng hết sức mình chứ đâu có nghĩ tới tiền thù lao, lương lậu?

Người đi buôn có quyền làm quảng cáo rùm beng, hoặc trên báo, hoặc trên đài phát thanh, trên đài truyền hình để “câu khách”, hoặc nhờ người dắt mối rồi cho họ ăn hoa hồng. Người đi buôn có thể rao ầm ỉ để mọi người biết là hàng của họ đẹp, bền, rẻ nhất thế giới chẳng hạn mà không sợ ai chê cười. Trái lại, người thầy thuốc, biết tự trọng, có liêm sĩ, không được phép làm như vậy. Không những Y sĩ đoàn, Nghĩa vụ luận không cho phép mà chính lương tâm của họ cũng không cho phép. “Người ốm không phải là một món hàng và chúng ta cũng thế, chúng ta không phải là món hàng để cho thiên hạ đem tiền ra mua chuộc. Chính người Thầy Thuốc, khi đem tài nghệ của mình ra để phục vụ người ốm, đã làm ơn cho họ, chứ không phải người ốm, vì đem tiền bạc hay thế lực mà ban ơn cho người Thầy Thuốc”. (Laennec) Ngoài bổn phận đối với bệnh nhân ra, các bạn còn có bổn phận đối với các bạn đồng nghiệp nữa.

Tôi nhận thấy ngày nay phần đông các bác sĩ không đối xử với nhau như các bậc đàn anh của họ hồi xưa: trên kính dưới nhường. Tuyệt đối các bạn không được nói xấu bạn đồng nghiệp, không được phê bình (với ác ý) chỉ trích cách định bệnh hoặc chữa bệnh của họ, không được gièm pha để tranh khách, không được len lỏi vào một gia đình nếu gia đình đó đã có một đồng nghiệp rồi.

Giáo sư P. V. Radot có kể lại truyện về giáo sư Maranon, một hôm tới bệnh viện Bichat và chăm chú nghe một sinh viên nội trú giới thiệu một bệnh nhân mắc chứng bệnh ở nội tiết tuyến (glandes endocrines), P. V. Radot viết: Khi tôi hỏi ý kiến của ông trước mặt đông đủ học trò của tôi thì ông chỉ mỉm cười, không trả lời.

Khi chỉ có một mình ông với tôi, tôi nói:
– Thế nào ông có đồng ý không?
Giáo sư Maranon đáp:
– Tôi không hoàn toàn đồng ý với học trò của ông.
– Thế tại sao lúc ấy ông không nói?
– Bởi vì không ai có thể biết sự thật chắc chắn được. Vả lại, không bao giờ được làm mất lòng một bạn đồng nghiệp cả!”.

Rồi giáo sư P.V. Radot kết luận: “Lịch sự tới cực độ ấy là một đặc tính của ông”.

Còn một điều này nữa tôi muốn nói với các bạn, là ngoài nghề thuốc ra các bạn cần phải trau dồi văn hóa, không những trên lãnh vực khoa học mà cả trên lãnh vực văn chương nữa.

Ở vào thời buổi này, một nhà khoa học phải ham thích văn chương cũng như một nhà văn, không thể không biết tới khoa học.

Chính nhờ văn hóa mà bạn có óc phê bình, sự phán đoán của bạn được sắc bén, mau lẹ và minh mẫn, trí tuệ không bị cùn nhụt, cằn cỗi, thành chai, tâm hồn của bạn vẫn giữ được trẻ trung mãi mãi.

Giáo sư P. V. Radot đã viết: “Phải mở mang trí tuệ của thanh niên hơn là để họ sống gò bó trong khuôn khổ chật hẹp của y khoa.”

Tôi nhận thấy nhiều danh y của thế giới, hoăc nhiều giáo sư đại học, đều là những người hiếu học, ham đọc sách, yêu sách, yêu nghệ thuật, học thức rất uyên thâm, vừa là thầy thuốc trứ danh, vừa là nhà văn nổi tiếng, như Mondor (nổi danh nhờ con dao cây bút và cây cọ), Jean Delay, P. V. Radot, Duhamel…. những người này vừa có chân trong Hàn Lâm viện Y khoa vừa là Hội viên của Hàn Lâm viện Pháp. Nữ văn hào Han Suyin, Sommerset Maugham, Cronin, trước khi là nhà văn, đã từng làm nghề thuốc. Tchekov, đại văn hào Nga, vừa sống về nghề thuốc, vừa viết văn. Ông thường nói: “Y học là vợ chính thức của tôi, còn văn chương là tình nhân. Khi tôi chán bà này thì tôi đi với bà kia. Tuy nhiên đối với cả hai, tôi đều trung thành cả. Nếu không có nghề thuốc, có lẽ tôi không có tài liệu để viết văn”. Giáo sư Trousseau mà tôi đã dẫn thượng, cũng bảo: “Một nhà bác học mà không phải là một nghệ sĩ chỉ là một nhà bác học tầm thường”. Bởi vậy tôi khuyên các bạn, ngoài việc học ra, nên để thời giờ nhàn rỗi, trau dồi văn hóa, rèn luyện văn chương, nghệ thuật (âm nhạc, hội họa,.v.v…) chơi thể thao, để cuộc đời đỡ buồn tẻ, vì theo tôi, nếu suốt đời làm mãi một nghề, bất cứ nghề gì, mà vẫn hăng say, không thấy chán thì quả thật là một sự lạ.

Không những để cuộc đời khỏi buồn tẻ mà còn làm cho đời sống thêm phong phú, để biết sâu hiểu rộng, ngoài lãnh vực y khoa. Người ta thường so sánh Thầy Thuốc với ông Cha sở và ông Luật sư. Tôi không mang tiếng mắc bệnh chủ quan nếu phê bình vai trò của ba loại người đó, mặc dầu ở đây chỉ có các bạn và tôi, mà chỉ xin dẫn Balzac và Duhamel là hai văn hào đã viết rất nhiều về cuộc đời của mấy nhân vật đó. Balzac nói: “Tôi cho rằng sở dĩ văn minh tiến bộ và nhân loại được sung sướng là nhờ ba người này”. Nhưng sau khi nhận thức đúng vai trò của người thầy thuốc, ông nói thêm: “Người nhà quê sẵn sàng nghe lời người kê toa cho mình để họ khỏi bệnh hơn là nghe lời ông Cha sở diễn thuyết về việc cứu vớt linh hồn. Một đàng có thể nói chuyện với họ về đồng áng và một đàng, chỉ có thể bàn với họ về thiên đàng, điều mà họ ít quan tâm tới”.

Còn Duhamel thì viết về ba vị đó như sau: “Ông luật sư mà ta nhờ cậy để bệnh vực công lý cho ta có thể chọn ngày giờ để tiếp khách. Nếu ông yêu nghề, ông sẽ hăng hái làm việc, dù sao, không có gì cấp bách cả. Đối với thân chủ của ông, dù sao tình thương không quý bằng tài hùng biện, bằng sự khôn khéo, bằng giao thiệp rộng. Công việc của một nhà tu hành có thể ví với công việc của người Thầy Thuốc. Tuy nhiên tôi cần nói ngay là chỉ khi nào hấp hối, người ta mới mời ông Cha Sở. Lương tâm dù bị cắn rứt, đợi đến sáng hôm sau cũng không muộn. Nhưng thường thường khi lên cơn đau vì trong thận có sạn, thì không thể nào đợi được. Ít khi người ta đánh thức ông Cha sở, dù ông này tốt, vì có người ăn năn sám hối; nhưng hơi nhức đầu một tí, có khi chẳng sao cả, đang đêm người ta cũng dựng ông thầy thuốc dậy”.

Các bạn sinh viên thân mến,

Tôi vừa phác họa ra đây hình ảnh của một người thầy thuốc, xứng đáng với danh từ ấy, suốt đời tận tụy, hi sinh cho người ốm, không quản vất vả, không mấy khi có thì giờ để nghỉ ngơi, giải trí, bữa ăn giấc ngủ thất thường, ngay đến những thú vui trong gia đình cũng không được hưởng, đã thế lại gặp nhiều bội bạc, hoăc có khi bị chính các bạn đồng nghiệp dèm pha, ghen ghét. Tuy vậy nhưng tôi chưa hề thấy một người Thầy Thuốc nào than phiền về cái nghề của họ, vì đó là một nghề cao đẹp, cao đẹp hơn hết mọi nghề khác, cao đẹp ở chỗ tất cả những cảnh khổ não trên thế gian này chỉ càng thắt chặt thêm mối dây liên lạc giữa người Thầy Thuốc với người ốm, không phân biệt giàu sang hay nghèo hèn, cao đẹp ở chỗ chỉ có nghề thuốc mới dung hòa được khoa học với lý trí và tình thương.

Và để kết thúc buổi nói chuyện, kể cũng khá dài rồi, tôi xin mượn lời giáo sư E. Rist, trích trong cuốn Y học là gì? (Qu’est-ce la Medicine ?):

“Muốn lúc nào cũng lãnh được hết trách nhiệm tinh thần của nghề chúng ta, chỉ có cách chắc chắn nhất, ấy là chuyên tâm vào nghề của mình, yêu nghề đó tha thiết, và luôn luôn cố gắng để mỗi ngày một tiến.

Người Thầy Thuốc muốn được tín nhiệm cần phải xứng đáng là người Thầy Thuốc, cần phải có một nếp sống giản dị, không xa hoa đàng điếm, phải lập gia đình và ở trong gia đình, nêu một tấm gương thanh bạch đứng đắn.

Người Thầy Thuốc phải sống thực tiễn và sống theo thời đại. Trí tuệ phải được rèn luyện, trau dồi luôn, hợp nhân đạo. Đối tượng của sự học là con người, con người toàn diện.

Người Thầy Thuốc không những nên tìm hiểu con người trên lãnh vực khoa học mà còn cần biết đến đời sống tâm linh.

Nhờ được tiếp xúc với đủ mọi tầng lớp người, nhờ được trông thấy những thử thách của cuộc đời và làm quen với những kiệt tác của nhân tâm, của nghệ thuật và của khoa học.

Sống cho người thân yêu và cho nghề của mình, đó không phải là một đề mục khá đẹp cho một mộ chí hay sao? Và nếu lại còn được cái đặc quyền sống cho Tổ Quốc nữa thì thật là sung sướng vô cùng. Và chung quy có lẽ đó là một cách thẳng thắn nhất để sống cho thầy thuốc gương mẫu đó.”

ĐỪNG ĐỂ GIÓ CUỐN ĐI
VÀI LỜI GIỚI THIỆU VẾ BS NGUYỄN HỮU PHIẾM

Bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm là một Tiến sĩ Y khoa tốt nghiệp tại Pháp, ngày 1-7-1949 được bổ nhiệm làm Bộ Trưởng Y Tế thời chính phủ Bảo Đại. Ông hoạt động trong nhiều lĩnh vực giáo dục, chính trị, văn học, có nhiều bài viết trên các báo thời Pháp thuộc, quen biết với nhiều người trong các giới chính quyền cũng như các văn nhân, nghệ sĩ. Ông có mở phòng mạch ở Đà Lạt, rất được nhân dân thương mến vì tận tụy với bệnh nhân, nhất là bệnh nhân nghèo. Nơi đây ông là bạn chí cốt với nhà văn đứng đầu nhóm Tự Lực Văn Đoàn là Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Khi Nhất Linh tự vẫn, do chống chính quyền Diệm, ông tận tình theo sát tới khi Nhất Linh mất. Vì nổi tiếng liêm khiết và hết lòng với bệnh nhân nên ở Đại Học Y khoa Huế ông được cử làm giáo sư phụ trách giảng dạy môn Nghĩa Vụ Luận. Năm 1968 trường Đại Học Y Khoa Saigon mời ông diễn thuyết về đạo đức y khoa tại trường này. Tài liệu hôm nay chính là bản văn ông diễn thuyết ngày đó, trích trong cuốn “Lời khuyên sinh viên Y Khoa” do ông chủ biên và do Trung tâm Học liệu bộ Giáo Dục xuất bản năm 1972.

Tôi xin chép lại cho các bạn xem. Những ý tưởng trong bài tôi đã đọc trên 30 năm hôm nay xem lại thấy như mới, vô cùng cảm động.

Các bạn hãy giữ nó làm chỉ nam giống như tôi đã giữ nó trên 30 năm nay. Đối với những người đồng cảm thì những lời trong bài “ngân lên vang vọng hòa nhịp với con tim người xem, gây ra một cảm giác không gì sánh được”.

Khác với các bài giáo điều, BS Phiếm trình bày bài nói chuyện rất chân tình, thực tế. Tác giả nhấn mạnh đến khía cạnh TRÁCH NHIỆM. Chính điều này đã làm nghề y khác hẳn những nghề khác, vinh nhục cũng từ đó mà ra. Nhiều người từ góc độ của nghề khác phê phán so bì với ngành y chúng ta, họ quên rằng bản chất của nghề y hoàn toàn khác hẳn các nghề khác. Mong rằng các bạn khi đọc xong lời khuyên này thì hãy còn chút gì đấy đọng lại trong tâm tư, đừng để gió cuốn đi.

Rate this post

Leave a Reply

Your email address will not be published.


*