CÁC NGHIỆM PHÁP THĂM DÒ DÒNG MÁU THẬN
Một số chất khi được đưa vào cơ thể, không bị chuyển hóa trong cơ thể, khi đi qua thận, được thận bài tiết hoàn toàn, nghĩa là máu tĩnh mạch thận hầu như hoàn toàn không còn chất đó. Các chất này có hệ số thanh thải đúng bằng dòng huyết tương qua thận. Do đó, đo hệ số thanh thải các chất trên, sẽ biết được dòng huyết tương qua thận. Nếu biết hematocrit, sẽ tính được dòng máu qua thận trong 1 phút. Các chất thường được dùng để thăm dò dòng máu thận là PAH (para amino hypuric acid); diodrat, PSP (phenol sulphol phtalein). Vì PAH là chất đễ định lượng, nên thường được sử dụng hơn.
Bình thường, dòng huyết tương qua thận là 580-620 ml/ph, nếu hematocrit là 0,45 l/l, thì dòng máu thận là 1050-1120 ml/ph. Trong điều kiện sinh lý bình thường, dòng máu thận thay đổi do đau, stress, có thai, hoạt động thể lực, lượng protein trong chế độ ăn. Trong trường hợp bệnh lý, dòng máu thận giảm trong: giảm thể tích tuần hoàn, suy tim, trong các bệnh thận. Giảm dòng máu thận thường tỉ lệ với giảm mức lọc cầu thận.
1. Đo hệ số thanh thải PAH
+ Kỹ thuật: để đo hệ số thanh thải PAH, người ta dùng phương pháp truyền tĩnh mạch hai giai đoạn.
– Giai đoạn 1: pha 30 ml dung dịch PAH 20% vào 250 ml dung dịch natri clorua 0,9%, truyền tĩnh mạch với tốc độ 20 ml/ph.
– Giai đoạn 2: tiếp theo giai đoạn 1, pha 14 ml PAH 20% vào 500 ml dung dịch natri clorua 0,9%, truyền tĩnh mạch với tốc độ 4 ml/ph để đạt nồng độ trong huyết tương 0,001-0,005 g/l (nồng độ trong huyết tương không được quá 7-10mg/dl).
Trước khi bắt đầu giai đoạn 1, đặt thông bàng quang qua niệu đạo. Khi bắt đầu giai đoạn 2 được 20 phút, tháo hết nước tiểu trong bàng quang bỏ đi, sau đó bơm vào bàng quang một ít không khí. Sau 20 phút, lấy hết nước tiểu trong bàng quang và lấy máu, định lượng PAH và đo thể tích nước tiểu.
+ Dòng huyết tương và dòng máu qua thận được tính theo công thức:
– Dòng huyết tương qua thận:
CPAH = (UPAH x V)/ PPAH
– Dòng máu qua thận
Q = (CPAH x 100)/ (1-Htc)
Trong đó CPAH là hệ số thanh thải PAH và đúng bằng dòng huyết tương qua thận (ml/ph); UPAH là nồng độ PAH trong nước tiểu (mg/dl); V là thể tích nước tiểu trong một phút (ml/ph); PPAH là nồng độ PAH trong huyết tương (mg/dl); Q là dòng máu thận (ml/ph); Htc là hematocrit của máu (l/l).
+ Bình thường dòng huyết tương qua thận là 620 ml/ph, dòng máu qua thận là 1120 ml/ph (với hematocrit là 0,45 l/l).
2. Đo hệ số thanh thải diodrat
Diodrat là thuốc cản quang đường tĩnh mạch, được dùng để đo dòng huyết tương qua thận. Sử dụng phương pháp truyền tĩnh mạch hai giai đoạn liên tục, hoặc tiêm dưới da, hoặc tiêm bắp. Tất cả các kỹ thuật này đều phải đạt nồng độ diodrat trong máu dưới 5 mg/dl.
Kết quả dòng huyết tương qua thận bằng hệ số thanh thải diodrat và bằng 687 ml/ph (Smith).
3. Đo hệ số thanh thải PSP
PSP (phenol sulphol phtalein) ở nồng độ thấp trong huyết tương (<1mg/dl), có hơn 80% PSP gắn với albumin, còn 20% ở dạng tự do. Chỉ có lượng PSP ở dạng tự do được lọc qua cầu thận, còn PSP gắn với albumin được ống thận bài tiết. Khi đi qua thận, hầu hết lượng PSP trong máu được thận bài xuất, máu tĩnh mạch thận hầu như không còn PSP, do đó hệ số thanh thải PSP xấp xỉ dòng huyết tương qua thận. Vì vậy, có thể đo hệ số thanh thải PSP để đánh giá dòng huyết tương qua thận và dòng máu qua thận.
Bình thường hệ số thanh thải PSP là 600 ml/ph.
4. Đo hệ số thanh thải 125I-iodohippurat
Kỹ thuật đo tương tự như phương pháp đo hệ số thanh thải PAH, nhưng xác định nồng độ 125I-iodohippurat trong máu và trong nước tiểu bằng phương pháp đo hoạt độ phóng xạ.
5. Kỹ thuật ghi hình phóng xạ dùng 131I-hippuran
Dùng máy ghi hình gamma để đo hoạt độ phóng xạ sau khi tiêm tĩnh mạch 131I-hippuran, từ đó tính ra dòng huyết tương qua thận. Chacati (1985) thấy phương pháp này cho kết quả có tương quan chặt với phương pháp đo hệ số thanh thải PAH (r=0,86).
6. Đo hệ số thanh thải 5-hydroxy indol acetic acid (5-HIAA)
Cho đến những năm gần đây, người ta vẫn tin rằng không có chất nội sinh nào có thể sử dụng để đo dòng máu thận. 1989 Hannedouche đã phát hiện chất 5-HIAA là sản phẩm chuyển hóa chính của serotonin được thận bài xuất 75%, và hệ số thanh thải của 5-HIAA có tương quan chặt với hệ số thanh thải PAH. Chất 5-HIAA được định lượng bằng phương pháp so màu. Đo hệ số thanh thải của 5-HIAA có thể được dùng để xác dịnh dòng huyết tương qua thận.
7. Siêu âm Doppler mạch máu thận
Sử dụng siêu âm Doppler phối hợp với siêu âm 2D khảo sát mạch máu thận cho chúng ta biết được hình thái của động mạch thận, tốc độ dòng máu thận và lưu lượng dòng máu thận. Có thể khảo sát từng vị trí của động mạch thận như gốc động mạch thận chỗ xuất phát từ động mạch chủ, động mạch ở rốn thận, động mạch thùy trên, thùy giữa, thùy dưới.
Lưu lượng dòng máu thận được tính theo công thức sau:
Q = S × Vm
Q: lưu lượng dòng máu thận (ml/ph)
S: Tiết diện động mạch.
Vm: Vận tốc trung bình của dòng máu thận (trung bình của thì thâm thu và thì tâm trương)
Siêu âm Doppler động mạch thận là biện pháp không xâm nhập, dễ thực hiện, nhanh chóng và rẻ tiền nên thường được ứng dụng hiện nay để thay thế các phương pháp khác thăm dò dòng máu thận trong lâm sàng.
PGS. TS. Hà Hoàng Kiệm, BV 103, HVQY
Leave a Reply