Axit Tranexamic Trong Dự Phòng Và Điều Trị Băng Huyết Sau Sinh
Tỷ lệ mổ lấy thai đã tăng lên đến mức cao 25 – 30% ở nhiều nơi trên thế giới. Tại Hoa Kỳ tỷ lệ mổ lấy thai đạt 31,3%, Vương quốc Anh 25,5%.
Trong trường hợp nặng, mổ lấy thai có thể dẫn đến chảy máu sản khoa, cắt bỏ tử cung, nằm đơn vị chăm sóc đặc biệt, hoặc tử vong cho mẹ.
Giảm chảy máu trong và sau sinh ở cả hai mổ lấy thai và sinh thường rất quan trọng để giảm tỷ lệ tử suất và bệnh suất ở mẹ .
Axit Tranexamic dẫn xuất tổng hợp của amino acid lysine, là một chất chống tiêu sợi huyết có thể đảo ngược ức chế hoạt hóa plasminogen, do đó ức chế tiêu sợi và giảm chảy máu.
Axit Tranexamic được sử dụng để giảm mất máu và cần truyền máu trong phẫu thuật tim, cấy ghép gan và phẫu thuật chỉnh hình.
Hơn nữa, Axit Tranexamic còn làm giảm nguy cơ tử vong ở bệnh nhân chảy máu trong chấn thương
Trong phụ khoa và sản khoa, Axit Tranexamic được sử dụng phổ biến nhất để điều trị bệnh rong kinh vô căn. Chảy máu liên quan đến thai kỳ (nhau bong non, nhau tiền đạo) cũng được điều trị bằng Axit Tranexamic.
Mỗi năm có khoảng năm mươi ngàn phụ nữ tử vong trên toàn thế giới liên quan đến mang thai và sinh đẻ.
Băng huyết sau sinh (BHSS) chiếm phần lớn tử vong cũng như bệnh suất của thiếu máu nặng cần truyền máu, nằm viện và nhiễm trùng.
Những người có nguy cơ cao mắc băng huyết sau sinh chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng số tử vong mẹ. Đa số bệnh suất và tử suất xảy ra ở những người không có yếu tố nguy cơ và không thể tiên đoán được
Đờ tử cung vẫn là nguyên nhân phổ biến nhất của băng huyết sau sinh. Xử trí đầu tiên băng huyết sau sinh là oxytocin. Các thuốc khác kết hợp bao gồm ergometrine , carboprost và misoprostol.
Axit Tranexamic có tác dụng cầm máu bổ sung cho các thuốc co hồi tử cung , đặc biệt là oxytocin. Tranexamic acid, 1 g (or 10 mg/kg) tiêm tĩnh mạch nên cho 10–20 phút trước khi rạch da hoặc tê tủy sống để có hiệu quả tốt nhất.
Leave a Comment